
Một cô bé 5 tuổi người Pháp bị cúm, đau tai, người mẹ cho dùng đến 3 loại thuốc mới giảm. Nhưng chỉ mấy giờ sau, bé lại đau bụng dữ dội. Đến bệnh viện, người mẹ mới biết con mình bị rối loạn dạ dày bởi dùng thuốc quá liều, vì 3 biệt dược trên có đều cùng một hoạt chất.
Đầu tiên, khi cô bé bị ho, sốt, nghẹt mũi khó thở, mẹ của bé đã cho dùng một liều Advil; nhưng về đêm, bé thức dậy vì đau tai. Thấy trong nhà còn Nureflex dùng cho trẻ, mẹ tiếp tục cho uống. Bé vẫn còn đau nên được cho uống Antarène. Mấy giờ sau, bé đau bụng dữ dội, phải đưa vào bệnh viện. Như thế, cô bé đã dùng 3 lần dùng loại thuốc giảm đau ibuprofène dưới nhiều tên thương mại khác nhau. Kết quả, liều dùng đó không có hiệu quả chữa bệnh cúm, ngược lại còn gây viêm dạ dày.
Hiện nay bác sĩ và bệnh nhân thường biết về các loại thuốc qua tên biệt dược của nó. Các chuyên gia về dược cho rằng, đã đến lúc cần thay đổi và để nhận biết tên thực sự của thuốc, nghĩa là tên của chất liệu tạo ra công hiệu chữa bệnh.
Tại Mỹ cũng như ở một số nước trên thế giới, việc kê đơn thuốc đều dựa vào xuất xứ của chất liệu hoặc viết các loại thuốc có tên gọi chung, mang tính quốc tế, gọi tắt là DCI. Tại Pháp, các bác sĩ thường chạy theo tên thương mại của các hãng kinh doanh dược phẩm.
DCI là chỉ rõ chất trị liệu chứa đựng trong viên thuốc. Nhờ DCI, người ta biết chắc chắn loại thuốc nào dùng được, kể cả cách sử dụng. Còn tên thương mại được các nhà kinh doanh dược phẩm chọn để thu hút sự chú ý, để bán hàng. Cùng một loại thuốc, nhưng người ta đặt nhiều tên khác nhau.
Việc kê đơn theo chất liệu cũng cho phép các bác sĩ giữ khoảng cách với phòng thí nghiệm. Nghĩ đến DCI, bác sĩ hiểu biết tốt hơn về thuốc, ví dụ như sự lầm lẫn giữa thuốc Zyrtec chống dị ứng và Zyprexa chống chứng loạn thần sẽ không xảy ra nếu đã biết rõ DCI.
Việc dùng tên gốc cũng có lợi cho bệnh nhân. Càng ngày số lượng thuốc càng gia tăng, trình độ hiểu biết, nhu cầu tiêu dùng càng nhiều. Theo báo Prescrire, việc kê toa theo DCI là cơ hội để chia sẻ với bệnh nhân những lý do tại sao phải chỉ định các loại thuốc cùng với những yếu tố cần thiết trong quá trình điều trị. Tràn ngập bởi vô số thông tin khác biệt về chất lượng khác nhau, bệnh nhân thường thích hiểu rõ ràng hơn những cách thức trị liệu được bác sĩ chỉ định cho họ và không bị tác động bởi thủ đoạn công nghiệp. Điều này giúp cho bệnh nhân nhận định được cùng một loại chất liệu khi đi mua thuốc không đơn.
Một số thuốc không kê đơn có thể thay đổi các thành phần kết hợp nhưng lại không đổi tên thương mại. Chẳng hạn, biệt dược Compralgyl ban đầu chứa aspirine, phénacétine, codéine, phénobarbital, caféine. Năm 1981, nó chỉ còn phénobarbital và caféine. Năm 1990, nó có aspirine và codéine. Cuối cùng, aspirine nhường chỗ cho paracétamol. Điều này cho thấy tên thương mại không cung cấp được thông tin gì về hoạt chất làm nên viên thuốc.
(Theo Sài Gòn Tiếp Thị)


0 comments:
Post a Comment