
Đánh cầu lông, tập luyện thể thao giúp tránh được bệnh thoát vị đĩa đệm - Ảnh: Gia Tiến
Bệnh nhân nam Hoàng Quí M. ở TP.HCM, 47 tuổi,đau vai, cánh tay trái từ một tháng nay, đau từng cơn dữ dội, điều trị thuốc và vật lý trị liệu không đỡ mà còn tăng hơn. Sau một tháng ông luôn phải đưa tay trái lên cao do đau nhiều.
Bệnh nhân được phẫu thuật với chẩn đoán thoát vị đĩa đệm C5-6. Sau mổ bệnh nhân hết đau, tay trái vận động bình thường.
Biểu hiện của thoát vị đĩa đệm cột sống cổ thường được chia thành hai nhóm: nhóm bệnh lý rễ và nhóm bệnh lý tủy.
Đau, tê, yếu liệt
Ở nhóm bệnh lý rễ, biểu hiện nổi bật thường là đau và tê. Đau cổ gáy, thường lan ra vai và xuống tay, làm hạn chế vận động của tay khi đưa ra sau (gãi sau lưng) hoặc lên cao (chải đầu), đôi khi đau cả một vùng da đầu. Thông thường đau nhức nhối, khó chịu nhưng đôi khi đau biểu hiện giống như mỏi, mơ hồ và không rõ ràng. Ở nước ta, rất nhiều người bệnh có biểu hiện đau ở một bên thành ngực hoặc ở vùng cột sống giữa hai bả vai, dấu hiệu này ít có ở Âu - Mỹ.
Tê thường hay thấy ở vùng cẳng tay, bàn tay và các ngón tay, tăng lên sau khi làm việc nhiều hoặc lái xe gắn máy. Nếu các ngón tay bị tê, người bệnh sẽ có cảm giác khác lạ khi cầm nắm các đồ vật thường dùng. Hầu hết đều có yếu cơ nhưng ít khi người bệnh nhận biết được, chỉ đến khi yếu nhiều, viết, cầm đũa hoặc gài nút áo khó khăn thì mới nhận ra. Khi bệnh nặng có thể có teo một số cơ ở tay.
Ở nhóm bệnh lý tủy, biểu hiện nổi bật thường là tê và yếu liệt. Tê thường bắt đầu ở vùng thân mình, đặc biệt ở vùng bụng trước, sau đó là hai chân và hai tay. Chân thường yếu trước hai tay làm người bệnh hay bị rớt dép hoặc dễ vấp ngã. Khi yếu nhiều, có thể thấy các thớ cơ rung lên mỗi khi đụng vào hoặc gắng sức. Khi bệnh nặng, người bệnh đi lại khó khăn, hai tay cũng không còn làm việc bình thường được nữa, tiểu khó và thường bị táo bón, hay cảm thấy thiếu hơi hoặc khó thở. Nhiều người bệnh có biểu hiện của cả bệnh lý rễ lẫn bệnh lý tủy.
Siêng vận động
Nấn ná, tủy nhũn
Đối với bệnh lý thoát vị đĩa đệm cột sống cổ, khi đã có chỉ định mổ, việc mổ sớm có ý nghĩa quan trọng. Trong nhiều trường hợp, do sự nấn ná của người bệnh mà tủy đã bị nhũn và lúc đó khả năng hồi phục rất kém.
Ngoài ra, khi tủy bị chèn ép nhiều, chỉ cần một chấn thương nhẹ cũng đủ làm tủy dập và trong đa số trường hợp việc cứu chữa trở nên rất khó khăn.
Các phương pháp chữa bệnh được chia thành hai nhóm: bảo tồn và can thiệp ngoại khoa.
Điều trị bảo tồn gồm việc dùng thuốc và vật lý trị liệu thường có hiệu quả khi người bệnh chỉ có đau hoặc tê trong bệnh lý rễ và hầu như không có hiệu quả đối với những người bệnh có biểu hiện của bệnh lý tủy. Kéo cột sống cổ là một phương pháp khá hiệu quả nhưng đòi hỏi người bệnh phải kiên trì. Xoa nắn (chiropractic) và các bài tập có thể mang lại hiệu quả khả quan. Các phương pháp khác như từ trường, ion, chiếu tia hồng ngoại, điện phân... cũng có những kết quả nhất định.
Khi người bệnh đã có teo cơ, hoặc có biểu hiện của bệnh lý tủy, điều trị ngoại khoa cần được xét đến. Một số phương pháp trước đây được sử dụng như giảm áp đĩa đệm bằng laser qua da hoặc lấy đĩa đệm thông qua một cây kim xuyên qua da có những hiệu quả tạm thời nhất định, nhưng hiện nay đã không còn được sử dụng ở các nước tiên tiến nữa. Mổ lấy nhân đệm và khối thoát vị dưới kính hiển vi phẫu thuật là biện pháp triệt để, hiệu quả và an toàn nhất hiện nay để điều trị bệnh này.
Mổ chỉ là một phần trong toàn bộ quá trình chữa bệnh. Tập vật lý trị liệu phục hồi chức năng sau mổ là bước không thể thiếu. Thường thì sáu tháng sau mổ người bệnh mới có thể bình phục hoàn toàn, nhưng sau 3-4 tuần đã có thể đi làm trở lại tuy vẫn còn phải kiêng cữ và tiếp tục chữa bệnh.
Tập luyện thể thao, sống trong môi trường trong sạch, thường xuyên vận động, tránh ngồi lì một chỗ và đừng để cho mình trở thành béo phì sẽ giúp chúng ta tránh được căn bệnh này.
(VNDOC 's Blog - Theo báo Tuổi Trẻ - TS. BS VÕ XUÂN SƠN (Trung tâm điều trị kỹ thuật cao các bệnh lý cột sống & tủy sống Exson)
0 comments:
Post a Comment