
Thiếu máu cơ tim do bệnh động mạch vành (ĐMV) là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên thế giới. Hiện nay, nhờ những tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật, việc điều trị bệnh thiếu máu cơ tim có rất nhiều biện pháp khác nhau để chọn lựa như: điều trị nội khoa, điều trị can thiệp nong và đặt stent, phẫu thuật bắc cầu nối mạch vành, ghép tế bào gốc.
Trong bài viết này, chúng tôi xin giới thiệu về phương pháp phẫu thuật bắc cầu nối mạch vành không ngừng tim phổi - một phương pháp đang được ứng dụng thành công và được thực hiện thường quy tại một số bệnh viện như Bệnh viện TWQĐ 108, Viện tim mạch - BV Bạch Mai, Bệnh viện Chợ Rẫy...
Bệnh nhân V.M.C., 37 tuổi, được đưa vào bệnh viện cấp cứu trong tình trạng đau thắt ngực không ổn định. Các bác sĩ đã xác định bệnh nhân C. bị hẹp khít động mạch liên thất trước. Đoạn động mạch bị tổn thương quá lớn, hiện tại ở Việt Nam chưa có sẵn loại stent kích cỡ phù hợp để đặt do vậy phương pháp điều trị được lựa chọn phù hợp nhất là phẫu thuật bắc cầu nối mạch vành. Bệnh nhân C. đã được kíp phẫu thuật của Khoa phẫu thuật lồng ngực - tim mạch (B4) – Bệnh viện TWQĐ 108 thực hiện phẫu thuật bắc cầu nối mạch vành không cần ngừng tim phổi. Ca phẫu thuật kéo dài 2 giờ 30 phút và bệnh nhân xuất viện hoàn toàn khỏe mạnh sau 10 ngày. Kỹ thuật này được áp dụng ở đây từ cuối tháng 4/2007. Đến nay, đã có 23 bệnh nhân được mổ thành công bằng phương pháp này, trong đó có 3 bệnh nhân cao tuổi (78 tuổi) đã ra viện được 5 tháng và tình trạng sức khỏe hoàn toàn ổn định.
Phương pháp này được chỉ định với các bệnh nhân bị tổn thương tim như sau:
Tổn thương hẹp thân chung ĐMV trái; Tổn thương cả ba nhánh ĐMV; Có bệnh van tim phối hợp cần phẫu thuật; Có các biến chứng cơ học (thủng vách liên thất, đứt cơ nhú...) hoặc thất bại của can thiệp mạch vành; Giải phẫu ĐMV không thích hợp cho việc can thiệp ĐMV qua da (stent).
Phương pháp bắc cầu nối mạch vành kinh điển
Phẫu thuật bắc cầu ĐMV là phương pháp điều trị đem lại hiệu quả tái tưới máu ĐMV toàn diện và triệt để nhất với kết quả lâu dài. Để bắc cầu ĐMV, phẫu thuật viên sẽ dùng các mạch ghép, có thể là tĩnh mạch (thường là tĩnh mạch hiển ở chân); động mạch vú trong (bên trái hoặc bên phải, hoặc cả 2 bên) hoặc đoạn động mạch quay ở tay của bệnh nhân. Mạch ghép này sẽ được nối vào ĐMV ở sau vị trí tổn thương để đưa máu từ động mạch chủ đi tắt qua vị trí tổn thương để nuôi tim. Chính vì vậy mà phương pháp này có tên là bắc cầu. Phẫu thuật có thể hạn chế được tình trạng tái tắc động mạch vành và bảo tồn được dòng máu theo sinh lý bình thường của đoạn mạch vành sau tổn thương.
Bộc lộ tim và đoạn động mạch bắc cầu.
Phẫu thuật bắc cầu ĐMV kinh điển được thực hiện với tuần hoàn ngoài cơ thể trên tim đã ngừng đập, được thực hiện một cách thường quy trên thế giới từ gần 40 năm nay, với số lượng hàng trăm nghìn bệnh nhân mỗi năm. Kết quả thu được trước mắt cũng như lâu dài rất tốt.
Tuy nhiên, phương pháp này lại có nhược điểm: Việc tim bị ngừng cung cấp máu và làm đông lạnh trong thời gian mổ sẽ dẫn tới những rối loạn chuyển hóa cơ tim và ảnh hưởng xấu tới chức năng cũng như khả năng phục hồi của tim, nhất là khi chức năng tim yếu. Việc kẹp động mạch chủ, nhất là trên những bệnh nhân lớn tuổi, thành động mạch chủ xơ vữa, có thể gây những rối loạn thần kinh trung ương sau mổ ở những mức độ khác nhau. Tuần hoàn ngoài cơ thể cũng ảnh hưởng đến các chức năng của cơ thể như đông chảy máu, chức năng thận, chức năng hô hấp sau mổ.
Ưu điểm vượt trội của phương pháp bắc cầu nối mạch vành không ngừng tim phổi
Phương pháp mổ bắc cầu không có tim phổi máy, không ngừng tim phổi là một phương pháp tiên tiến được bắt đầu thực hiện từ vài năm trở lại đây. Để thực hiện phương pháp này, phẫu thuật viên sẽ nối các mạch vành trong khi quả tim vẫn đang đập, nên cần có dụng cụ đặc biệt để cố định vùng tim cần làm cầu nối. Phương pháp này ngày càng được áp dụng nhiều trên thế giới. Hiện nay với các tiến bộ không ngừng về trang thiết bị cũng như kỹ thuật mổ, phương pháp này cho kết quả lâu dài về chất lượng của cầu nối tương đương với phẫu thuật kinh điển đồng thời lại có những ưu điểm rõ rệt như: Có thể mổ cho những bệnh nhân mà tình trạng toàn thân của bệnh nhân cũng như chức năng tim đã kém, không thể áp dụng phương pháp mổ với tim phổi máy; Hoạt động của tim không bị gián đoạn, thời gian phục hồi và những nguy hiểm đối với bệnh nhân sẽ giảm rất nhiều; Rút ngắn thời gian mổ và thời gian hồi sức sau mổ cho bệnh nhân; Giảm một cách có ý nghĩa việc truyền máu trong và sau mổ. Giảm các biến chứng thần kinh, suy thận, suy hô hấp sau mổ. Điều này rất quan trọng với các bệnh nhân thuộc nhóm có nguy cơ cao.
Theo ThS.Ngô Vi Hải, khi thực hiện phương pháp này có một số khó khăn sau: để thực hiện được kỹ thuật bắc cầu nối ĐMV không dùng tuần hoàn ngoài cơ thể, các phẫu thuật viên phải nối mạch vành (kích thước 1-2mm) trên quả tim đang đập, nên ngoài các phương tiện hiện đại, đồng bộ và dụng cụ đặc biệt để cố định vùng tim cần làm cầu nối, đòi hỏi phẫu thuật viên phải có kỹ năng tốt, được đào tạo bài bản về kỹ thuật này; Quả tim được nâng lên để bộc lộ vị trí động mạch vành trong khi vẫn đang đập nên việc gây mê bảo đảm cho ca phẫu thuật cũng rất phức tạp, đòi hỏi sự phối hợp hết sức chặt chẽ giữa các thành viên trong kíp mổ và gây mê; Bác sĩ gây mê phải có kinh nghiệm để kịp thời điều chỉnh những rối loạn huyết động do việc thay đổi vị trí này tạo ra.
ThS. Ngô Vi Hải cũng cho biết thêm: tổng chi phí cho một ca phẫu thuật bắc cầu ĐMV không ngừng tim phổi không đắt hơn so với phương pháp phẫu thuật bắc cầu ĐMV kinh điển, mặc dù dụng cụ cho mỗi ca phẫu thuật có giá thành cao và chỉ dùng được một lần. Tuy nhiên, việc chăm sóc cho bệnh nhân sau mổ lại ít tốn kém hơn, ít phải dùng thuốc và truyền máu, ít có biến chứng, do đó tổng giá thành cuộc mổ sẽ thấp hơn so với phương pháp mổ với tuần hoàn ngoài cơ thể. Bệnh nhân hồi phục nhanh và được ra viện trung bình sau mổ khoảng 7-10 ngày.
(VNDOC 's Blog - Theo báo Sức Khỏe và Đời Sống)
0 comments:
Post a Comment